Bánh mì là thức ăn chính thức ở các nước Trung đông, giống như cơm gạo ở các nước Á Châu chúng ta, vì thế nói đến bánh mì tức là nói đến lương thực hằng ngày. Cần thiết như máu và hơi thở, cơm bánh là điều kiện tiên quyết để sống, không có gì thay thế được. Cũng như con người, lương thực này xuất phát từ lòng đất, và từ đó cơm bánh trở thành một biểu hiệu cho sự tồn tại trong xương thịt con người. Trong ý nghĩ này, cơm bánh được dùng làm của lễ khi dâng cúng- - vì chúng là ân huệ của Thiên Chúa ban.
Bánh mì người ta không thể ngẳt hái như trái cây, mà là kết quả của hoa màu ruộng đất, của nắng mưa và sức lao động của con người. Thế nên là biểu tượng cho sự giao kết đất trời, và cho sự biến đổi nguyên liệu sự sống.
Trước khi trở thành một tấm bánh, hàng ngàn hạt lúa phải được nghiền nát và được nướng trong lửa. Rồi một tấm bánh lại được bẻ ra chia cho mọi người cùng ban: bánh trở nên dấu hiệu của sự hiệp nhất. Tất cả những ý nghĩa tự nhiên này chúng ta gặp lại trong bữa tiệc cuối của Đức Giê-su.
Nhưng dù là lương thực rất cần thiết hằng ngày, cơm bánh cũng chỉ có thể nuôi được thân xác mà thôi. Linh hồn cần một thứ lương thực khác, mà con người không tự trao cho mình được: „ Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời bởi miệng Thiên Chúa phán ra.“ (Mt 4,4) Đó là kinh nghiệm của Đức Giê-su, sau khi nhịn đói 40 ngày trong sa mạc. Cơm bánh cho xác hồn là ước muốn sâu xa mà Kinh Lạy Cha nói nên: „Xin cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày“.
Bánh mì nhận một ý nghĩ mới hoàn toàn khi Đức Giê-su, trong bữa tiệc sau cùng với các môn đệ, cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: „An em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy“ (Mt 26,26). Cùng với cái chết của Đức Giê-su bánh trở nên một biểu tượng sâu xa: Chúa hiến mạng mình để nuôi sống con người.